Làm rõ vai trò của các cuộc cách mạng công nghiệp đối với sự phát triển của công cụ lao động?

 Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra từ thế kỷ XVIII đến XIX ở châu Âu và Mỹ. Đó là thời kỳ mà hầu hết nông nghiệp, xã hội nông thôn đã trở thành công nghiệp và đô thị. Ngành công nghiệp sắt và dệt, cùng với sự phát triển của động cơ hơi nước, đóng vai trò trung tâm trong Cách mạng Công nghiệp.

xét về mặt kỹ thuật, đặc điểm nổi bật của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là “do có sự phát minh ra máy hơi nước, các thứ máy kéo sợi, máy dệt và hàng loạt những thiết bị máy móc khác”1 thay thế công cụ thủ công trước đó, biến nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất qui mô lớn, được thể hiện rõ trong ngành dệt may, luyện kim, cơ khí.




Công cụ lao động không ngừng được cải tiến, năng suất lao động không ngừng được tăng trưởng mạnh mẽ là kết quả trực tiếp của cuộc cách mạng công nghiệp, tất yếu lực lượng lao động, cơ cấu lao động cũng theo đó mà phân hóa rõ rệt; công nghiệp tách khỏi nông nghiệp.

Nếu ở giai đoạn trước đó là công trường thủ công, phương pháp sản xuất theo kinh nghiệm truyền thống, chủ yếu dựa vào tay nghề khéo léo của công nhân, phân công lao động ở trình độ hợp tác giản đơn, chuyên môn hóa hẹp với đặc điểm mỗi công nhân chỉ thích ứng với một chức năng bộ phận, nên chưa thể có hàng hóa đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao của con người, thì nay, trong cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, với sự tham dự của cơ khí, máy móc được sử dụng phổ biến mà hàng hóa đã dồi dào hơn, lưu thông, buôn bán theo đó cũng gia tăng theo, đủ đáp ứng nhu cầu con người.




Ngành dệt may: Lúc bấy giờ, các nhà máy dệt đều phải đặt gần sông để lợi dụng sức nước chảy. Năm 1784, James Watt phụ tá thí nghiệm của một trường đại học đã phát minh ra máy hơi nước. Nhờ phát minh này, nhà máy dệt có thể đặt bất cứ nơi nào. Năm 1785, linh mục Edmund Cartwright cho ra đời một phát minh quan trọng trong ngành dệt là máy dệt vải. Máy này đã tăng năng suất dệt lên tới 40 lần.




Máy se sợi của Edmund Cartwright

Ngành luyện kim: Năm 1784, Henry Cort đã tìm ra cách luyện sắt “puddling”. Mặc dù phương pháp của Henry Cort đã luyện được sắt có chất lượng hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về độ bền của máy móc. Năm 1885, Henry Bessemer đã phát minh ra lò cao có khả năng luyện gang lỏng thành thép, khắc phục được những nhược điểm của chiếc máy trước đó.

Ngành giao thông vận tải: Chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên chạy bằng hơi nước vào năm 1804. Đến năm 1829, vận tốc xe lửa đã lên tới 14 dặm/giờ. Thành công này đã làm bùng nổ hệ thống đường sắt ở Châu Âu và Mỹ. Năm 1807, Robert Fulton đã chế ra tàu thủy chạy bằng hơi nước thay thế cho những mái chèo hay những cánh buồm.



Cách mạng công nghiệp lần thứ hai (1871-1914) là thuật ngữ được sử dụng bởi một số nhà sử học để miêu tả giai đoạn thứ hai của Cuộc cách mạng công nghiệp. Thời gian này có sự phát triển của các ngành công nghiệp hóa chất, dầu mỏ, thép và điện lực. Sản xuất hàng loạt hàng tiêu dùng được phát triển, các lĩnh vực như đồ uống và thực phẩm, quần áo, vận tải và giải trí gồm rạp chiếu phim, phát thanh, máy ghi âm được thương mại hóa đáp ứng nhu cầu dân chúng và tạo nhiều công ăn việc làm. Sự phát triển mau lẹ này, tuy vậy, là yếu tố đưa đến thời gian trì trệ những năm 1873-1896 và giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản tài chính độc quyền sau này.



Nhiều sáng chế đã được cải thiện trong Cách mạng công nghiệp thứ hai, bao gồm cả in ấn và động cơ hơi nước.  Trong thực tế cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai, sự phát triển động cơ đốt trong ở một số nước công nghiệp phát triển và trao đổi ý tưởng đã được nhanh hơn nhiều. Một ví dụ, động cơ đốt trong chạy trên khí than đá đầu tiên đã được phát triển do Etienne Lenoir ở Pháp, nơi mà nó đã có một số thành công hạn chế như là một động cơ nhỏ trong công nghiệp nhẹ. Động cơ hơi nước đã được phát triển và áp dụng ở Anh trong thế kỷ 18, và được xuất khẩu chậm chạp sang châu Âu và phần còn lại của thế giới trong thế kỷ 19, cùng với các cách mạng công nghiệp.


Cuộc cách mạng công nghiệp lần 3 hay còn được gọi Cách mạng kỹ thuật số (Tiếng Anh là Digital Revolution), kỷ nguyên công nghệ thông tin, diễn ra từ những năm 1950 đến cuối những năm 1970, với sự áp dụng phổ biến máy tính kỹ thuật số và lưu giữ hồ sơ kỹ thuật số còn áp dụng đến này nay. Ngẫu nhiên, thuật ngữ này cũng dùng đề cập đến những thay đổi sâu rộng do công nghệ điện toán và truyền thông kỹ thuật số mang lại ở giai đoạn nửa sau của thế kỷ 20. Tương tự như cuộc Cách mạng Nông nghiệp và Cách mạng Công nghiệp, cuộc Cách mạng Kỹ thuật số đánh dấu sự khởi đầu của Kỷ nguyên thông tin.



Công nghệ cơ bản được phát minh vào nửa cuối thế kỷ 19, bao gồm cả động cơ phân tích của Babbage (Analytical Engine) [4] và điện báo. Truyền tin kỹ thuật số trở nên rẻ hơn khi áp dụng rộng rãi sau khi phát minh ra máy tính cá nhân.

Cuộc cách mạng kỹ thuật số đã chuyển đổi công nghệ analogue sang định dạng kỹ thuật số. Bằng cách này, có thể tạo ra các bản sao giống hệt với bản gốc. Trong giao tiếp kỹ thuật số, ví dụ, phần cứng lặp lại có thể khuếch đại tín hiệu kỹ thuật số và truyền nó mà không làm mất thông tin  trong tín hiệu. Tầm quan trọng tương đương với cuộc cách mạng là khả năng dễ dàng di chuyển thông tin kỹ thuật số giữa các phương tiện và truy cập hoặc phân phối từ xa.


Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được gọi là Công nghiệp 4.0. Công nghiệp 4.0 tập trung vào công nghệ kỹ thuật số từ những thập kỷ gần đây lên một cấp độ hoàn toàn mới với sự trợ giúp của kết nối thông qua Internet vạn vật, truy cập dữ liệu thời gian thực và giới thiệu các hệ thống vật lý không gian mạng. 

dựa trên nền tảng của sự kết hợp công nghệ cảm biến mới, phân tích dữ liệu lớn, điện toán đám mây và kết nối internet vạn vật sẽ thúc đẩy sự phát triển của máy móc tự động hóa và hệ thống sản xuất thông minh. 



Sử dụng công nghệ in 3D để sản xuất sản phẩm một cách hoàn chỉnh nhờ nhất thể hóa các dây chuyền sản xuất không phải qua giai đoạn lắp ráp các thiết bị phụ trợ - công nghệ này cũng cho phép con người có thể in ra sản phẩm mới bằng những phương pháp phi truyền thống, bỏ qua các khâu trung gian và giảm chi phí sản xuất nhiều nhất có thể. Công nghệ nano và vật liệu mới tạo ra các cấu trúc vật liệu mới ứng dụng rộng rãi trong hầu hết các lĩnh vực.

 Trí tuệ nhân tạo và điều khiển học cho phép con người kiểm soát từ xa, không giới hạn về không gian, thời gian, tương tác nhanh hơn và chính xác hơn.

Đánh giá bản thân:

Đã đóng góp nhiều hơn cho team, kím được nhiều tài liệu hơn cũng như hoạt động với nhóm cũng tốt hơn.

Đã tiếp thu được các kiến thức về các cuộc cách mạng công nghiệp trên thế giới cũng như sự phát triển của công cụ lao động

Nhận xét

Bài đăng phổ biến